Các họ còn sinh tồn Phân_bộ_Dạng_mèo

Hiện nay còn 6 họ sinh tồn, chia ra thành 12 phân họ, 56 chi và khoảng 114 loài trong phân bộ Feliformia. Chúng phân bố tự nhiên trong gần như mọi châu lục, ngoại trừ châu Nam CựcAustralia. Phần lớn các loài là những thợ săn kiểu mai phục sống trên cây hay nửa sống trên cây. Các con mồi mục tiêu săn bắt phụ thuộc vào loài cũng như nguồn cung cấp thức ăn (với các loài lớn nhất chủ yếu ăn thịt các loài động vật có vú to lớn còn các loài nhỏ nhất ăn côn trùng hay động vật không xương sống).

Tổng quan về mỗi họ được đưa ra tại đây. Để có chi tiết cụ thể cho từng đơn vị phân loại và miêu tả của các loài trong từng họ, xem các bài viết cụ thể có liên quan và các nguồn tham chiếu ngoài.

Eupleridae

Cầy Fossa (Cryptoprocta ferox)

Họ Eupleridae ('động vật ăn thịt Malagasy') bao gồm cầy Fossa, cầy Falanouc, cầy hương Malagasycầy mangut Malagasy, tất cả đều chỉ có tại Madagascar. Tổng cộng có 8 loài trong họ mặc dù các biến thái về hình dáng là đáng kể. Các khác biệt này ban đầu đã dẫn tới việc các loài trong họ chia sẻ tên gọi chung với, và bị đặt vào các họ khác với các loài dường như là tương tự trong đại lục (ví dụ cầy hương hay cầy mangut). Tuy nhiên, phân tích phát sinh loài với ADN cung cấp chứng cứ mạnh cho thấy tất cả động vật ăn thịt Malagasy đã tiến hóa từ cùng một tổ tiên chung là động vật dạng cầy mangut (Yoder và ctv. 2003) [6a,6b]. Phân tích phát sinh loài gần đây ủng hộ quan điểm này và đặt tất cả động vật ăn thịt Malagasy vào trong họ Eupleridae (Gaubert và ctv. 2005) [7].

Các khác biệt về hình dạng làm cho việc đưa ra tổng quan chung một cách súc tích cho các loài trong họ này. Sự dao động lớn về kích thước và hình dáng, với loài nhỏ nhất chỉ nặng 500 g (1 lb) và loài lớn nhất nặng tới 12 kg (26 lb). Một số loài có các vuốt rụt vào được hay bán rụt vào được (cầy Fossa và cầy hương Malagasy) còn các loài khác thì không (cầy mangut Falanouc và cầy mangut Malagasy). Tất cả chúng đều có xu hướng có thân hình mảnh dẻ và mõm nhọn (ngoại trừ cầy Fossa có mõm tù).Thức ăn dao động theo kích thước, hình dáng loài và, tương tự như các đối tác khác tại đại lục, cũng dao động từ động vật có vú nhỏ, côn trùng hay động vật không xương sống như động vật giáp xác hay động vật thân mềm.

Felidae

Báo gêpa (Acinonyx jubatus)

Họ Felidae (mèo, báo săn, sư tử, mèo Geoffroy v.v.) là các động vật ăn thịt "dạng mèo" được biết đến nhiều nhất. Có khoảng 39 loài còn sinh tồn, với gần như tất cả đều có vuốt có thể rụt vào. Họ này có mặt trên mọi châu lục ngoại trừ Australia và châu Nam Cực. Các loài dao động về kích thước từ mèo chân đen (Felis nigripes) nhỏ bé với khối lượng chỉ 2 kg (4,5 lb) tới hổ (Panthera tigris) to lớn và nặng 300 kg (660 lb). Thức ăn từ các động vật có vú lớn và nhỏ, chim và côn trùng (phụ thuộc vào kích thước loài.)

Herpestidae

Hồ cầy (Suricata suricatta)

Họ Herpestidae (cầy mangut, cầy mangut lùn, hồ cầy v.v.) có 32 loài. Trước đây, chúng được đặt trong họ Cầy (Viverridae). Tuy nhiên, Wilson và Reeder (1993) đã thiết lập rằng nhóm này là khác biệt về mặt hình thái và gen với nghóm thuộc họ Cầy. Chúng sinh sống tại khu vực châu Phi, Trung Đông và châu Á. Tất cả đều có vuốt không rụt lại được. Chúng là các động vật nhỏ, nặng từ khoảng 1 kg (2,2 lb) tới 5 kg (11 lb), và thông thường có thân hình dài, mảnh dẻ, chân ngắn. Thức ăn phụ thuộc theo kích thước của loài và nguồn cung cấp, từ các động vật có vú nhỏ, chim tới bò sát, côn trùng hay cua. Một số loài ăn tạp, ăn cả hoa quả và củ.

Hyaenidae

Linh cẩu đốm (Crocuta crocuta)

Họ Hyaenidae (linh cẩusói đất) có 4 loài còn sinh tồn và 2 phân loài. Tất cả đều có vuốt không rụt vào được. Chúng sinh sống trong khu vực Trung Đông, Ấn Độchâu Phi. Linh cẩu là các động vật lớn và có sức mạnh, nặng tới 80 kg (176 lb) và là một trong những động vật ăn thịt lớn cùng mắn đẻ trên Trái Đất. Sói đất nhỏ hơn, chỉ nặng 27 kg (60 lb) và là động vật ăn thức ăn chuyên biệt hóa, chúng chủ yếu ăn mối.

Nandiniidae

Họ Nandiniidae (cầy cọ châu Phi) chỉ có 1 loài (Nandinia binotata), sinh tồn trong khu vực châu Phi hạ Sahara. Nó có vuốt có thể rụt lại và thân hình mảnh dẻ, sống trên cây, ăn tạp, với các loại quả chiếm tỷ trọng lớn trong khẩu phần ăn của nó. Các con đực nói chung to và nặng hơn, có thể nặng tới 5 kg (11 lb).

Viverridae

Cầy mực (Arctictis binturong)

Họ Viverridae (cầy mực, cầy hương, cầy genet, cầy gấmcầy linsang) có 30 loài còn sinh tồn, tất cả đều có vuốt có thể rụt lại. Chúng sinh sống trong khu vực Nam Âu, châu Phi và châu Á. Kích thước dao động từ nhỏ, chỉ nặng 500g (1 lb) tới trung bình và nặng tới 14 kg (39 lb). Các loài cầy của họ này có thân hình dài, chân ngắn và thường có đuôi dài. Thức ăn từ động vật có vú nhỏ và côn trùng tới động vật giáp xácđộng vật thân mềm.